Bệnh: Bệnh trĩ và giải pháp điều trị tận gốc -(41)
Bệnh trĩ là bệnh tạo thành do tình trạng dãn quá mức các đám rối tĩnh
mạch trĩ. Bệnh trĩ rất thường gặp, có thể mắc phải ở cả người trẻ tuổi
nhưng tăng lên ở những người lớn tuổi.
Bệnh
trĩ thường gặp ở những người bị táo bón kinh niên, viêm đại tràng mãn
tính, bị viêm nhiễm vùng hậu môn trực tràng, mắc hội chứng lỵ, có u ở
vùng trực tràng, những người thường xuyên phải đứng hoặc ngồi lâu, phải
lao động nặng hoặc phụ nữ có thai ...
Thông thường, bệnh trĩ được
chia làm 3 loại: trĩ nội, trĩ ngoại và trĩ hỗn hợp. Cách chia như vậy
là dựa trên vị trí của các tĩnh mạch trĩ bị giãn so với mép hậu môn,
chứ không phải chỉ mức độ nặng hay nhẹ như nhiều bệnh nhân lầm tưởng.
Chỉ riêng trĩ nội, người ta mới chia theo mức độ bệnh từ nhẹ đến nặng
thành Trĩ nội độ 1; 2; 3 và 4.
Chảy máu và sa búi trĩ là 2 triệu chứng chính của bệnh trĩ.
Chảy
máu là triệu chứng có sớm nhất và thường gặp nhất. Lúc đầu chảy máu rất
kín đáo, tình cờ bệnh nhân phát hiện khi nhìn vào giấy chùi vệ sinh sau
khi đi cầu hoặc nhìn vào phân thấy vài tia máu nhỏ dính vào thỏi phân
rắn. Về sau mổi khi đi cầu phải rặn nhiều do táo bón thì máu chảy thành
giọt hay thành tia. Nặng hơn nữa bệnh nhân chảy máu khi đi lại nhiều
hay ngồi xổm. có khi máu chảy rất nhiều bắt bệnh nhân phải vào cấp cứu.
Đôi khi máu từ búi trĩ chảy ra đọng lại trong lòng trực tràng rồi sau
đó mới đi cầu ra nhiều máu cục.
Sa búi trĩ thường xảy ra trễ hơn
sau một thời gian đi cầu có chảy máu, lúc đầu sau mỗi lần đại tiện thấy
có khối nhỏ (búi trĩ) lồi ra ở hậu môn và tự tụt vào được. Càng về sau
búi trĩ càng lớn dần và không tự tụt vào được mà phải dùng tay nhét
vào. Cuối cùng khối sa đó thường xuyên nằm ngoài hậu môn.
Ngoài
hai triệu chứng chính trên, bệnh nhân có thể có kèm theo các triệu
chứng khác như đau khi đi cầu, ngứa quanh hậu môn. Thông thường, trĩ
không gây đau, triệu chứng đau xảy ra khi có biến chứng như tắc mạch,
sa trĩ nghẹt hay do các bệnh khác ở vùng hậu môn như nứt hậu môn, áp xe
cạnh hậu môn… Triệu chứng ngứa xảy ra do búi trĩ sa ra ngoài và tiết
dịch gây viêm da quanh hậu môn, dịch tiết làm cho bệnh nhân cảm thấy
hậu môn lúc nào cũng có cảm giác ướt và ngứa.
Theo đông y, bệnh
trĩ phát sinh do dinh dưỡng không đầy đủ hoặc ăn uống bừa bãi, lạm dụng
các loại thức ăn, uống cay nóng như tiêu, ớt, cà phê, rượu, thuốc lá...
làm chức năng vận hóa của tạng tỳ bị tổn thương; Thứ nữa là do thần
kinh con người bị kích thích quá mức, các stress làm cho tinh thần mỏi
mệt bất an dẫn đến hại tỳ; Thứ ba là lao lực qua độ làm cho nguồn tinh
khí bị hao tán, nên không đủ để đưa lên nuôi dưỡng tỳ dương. Tạng Tỳ đã
hư thì làm cho Vị cũng suy theo. Khi Tỳ, Vị đã hư yếu thì sẽ không vận
hóa được thủy cốc (tiêu hóa thức ăn), nên chất dinh dưỡng không hấp thu
được mà thành thấp nhiệt, đàm trọc ứ đọng làm phát sinh các búi trĩ,
tạo thành dịch tiết gây ngứa ngáy vùng hậu môn. Tỳ hư không làm chủ
được cơ nhục, làm cơ nhục hư yếu, dương khí hư gây nên chứng hạ hãm, sa
giáng, nên các búi trĩ sa xuống (lòi dom). Tỳ hư không nhiếp được
huyết, làm chảy máu khi đi đại tiện. Thấp nhiệt tích đọng ở đại trường
làm hao huyết, khô tân dịch nên đại tiện bị táo bón.
Như vậy, có
thể khẳng định rằng tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác
động đến trung tiêu,làm tỳ vị hư yếu khiến bệnh trĩ bùng phát. Vì vậy,
để chữa trị và ngăn ngừa sự tái phát của bệnh trĩ, ngoài việc điều trị
các triệu chứng (làm tiêu búi trĩ, chống táo bón, chống chảy máu...)
thì phải tập trung vào điều trị nguyên nhân gây bệnh (gốc của bệnh),
tức là phải bồi bổ trung tiêu, nuôi dưỡng khí huyết, làm cho Tỳ, Vị
được cường tráng, dương khí được đầy đủ thì bệnh ắt tiêu tan.
Từ
xa xưa Y học cổ truyền đã biết sử dụng bài thuốc Bổ trung ích khí do Lý
Đông Viên chế ra và các biến pháp của bài thuốc này với tác dụng bổ
trung, ích khí, làm co búi trĩ, bền vững thành mạch, bổ khí huyết, chỉ
huyết, tán ứ trệ, hành huyết, lương huyết, nhuận tràng,... để chữa
bệnh trĩ (lòi dom) rất hiệu quả.
Việc điều chỉnh chế độ ăn uống,
sinh hoạt phù hợp, giữ được trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái cũng
góp phần tăng hiệu quả điều trị bệnh cũng như phòng ngừa bệnh tái phát
trở lại.
Theo SKĐS